Thứ Tư, 15 tháng 3, 2017

Dùng thuốc để điều trị viêm gan B

Các cái thuốc nào được tiêu dùng để điều trị viêm gan B ?
Liệu pháp kháng vi rút ko được khuyến cáo trong thời kỳ viêm gan B cấp bởi vì hiện trạng nhiễm trùng tự rút lui ở hấu hết bệnh nhân với triệu chứng. Tuy nhiện, suy gan cấp đã nói ở trên chiếm dưới 0,5% trường hợp viêm gan B cấp ở người to đòi hỏi lưu ý giám định về việc ghép gan. FDA đã đưa ra hai loại thuốc là interferon và lamivudin để điều trị viêm gan B mạn. Việc dùng thuốc kháng vi rút điều trị cho những bệnh nhân mang vi rút đang hoạt động sinh sản ( HBeAg dương tính và HBV DNA dương tính ), thay đổi chức năng gan ( nâng cao men gan ALT và AST) và không mang dấu hiệu bệnh lí gan ( chỉ các biến chứng của xơ gan ). Mục đích trực tiếp của liệu pháp kháng vi rút là khiến giảm sự sinh sản (Ức chế HBeAg và HBV DNA trong máu ) và cải thiện chức năng gan ( ALT và AST về thông thường ). mục tiêu cơ bản là đề phòng thương tổn và sẹo hóa mô gan phổ biến hơn nữa, làm cho ngừng tiến trình tới xơ gan và bằng cách thức Đó phòng ngừa những biến chứng của xơ gan bao gồm cả ung thư gan.
Interferon – alpha 2b ( intron A) lần trước hết cho thấy hiệu quả trong điều trị viêm gan B mạn vào năm 1988. Ngay sau ngừng thi côngĐây, FDA cấp phép interferon trong điều trị viêm gan B mạn. Interferon –alpha 2b là 1 protein nhỏ tự nhiên trong cơ thể được tạo ra bởi bạch huyết cầu để chống lại sự nhiễm vi rút. ngoài ra nó với hiệu quả kháng vi rút trực tiếp bằng phương pháp hỗ trợ hệ miễn nhiễm thân thể khiến cho sạch vi rút.>>>>nu tam that bao tu
Người ta tạo ra nhiều chiếc interferon, bao gồm beta interferon, gamma interferon , và ít ra hơn 20 mẫu alpha interferon khác nhau. Tuy nhiên, chỉ có interferon-alpha 2b và interferon – alpha 2a là được FDA hài lòng cho dùng trong lâm sàng ở Mỹ. Hoạt động kháng vi rút của hai mẫu interferon là như vậy nhau dù rằng chỉ interferon –alpha 2b là được cấp phép dùng điều trị viêm gan B mạn. Lưu ý rằng ribavirin, 1 chiếc thuốc sử dụng phối hợp sở hữu interferon trong điều trị viêm gan C thì ko sở hữu hiệu quả trong điều trị nhiễm HBV.
Để điều trị viêm gan B mạn, 1 đợt điều trị interferon trong khoảng 4-6 tháng. Interferon được tiêm dưới da mỗi ngày sở hữu liều 5 triệu công ty hay 3 lần 1 tuần với liều 10 triệu tổ chức. Kết quả điều trị là khiến giảm sự sinh sản HBV 30-40% ở bệnh nhân được điều trị. Điều trị thành công khi biến mất HbeAg, HBV DNA và xuất hiện kháng thể anti- Hbe. Bởi vậy, chuyển từ công đoạn vi rút đang hoạt động sang thời kỳ ko hoạt động. Xét nghiệm chức năng gan trở về thông thường sớm nhất và không với thương tổn hay sẹo hóa mô gan dưới lâm sàng (được thấy qua sinh thiết gan ). Hơn 50% bệnh nhân không phải là người Châu Á đã được điều trị thành công không mang HBsAg trong máu. Ngoài ra, 1 lượng nhỏ HBV còn còn đó trong gan của họ. Điều này cho thấy sự giảm thiểu HBsAg hầu như không bao giờ xảy ra ở Châu Á, ngay cả các người đã điều trị thành công. tuy nhiên, sự tái hoạt động của vi rút chỉ chiếm khoảng 5% trường hợp bệnh nhân được điều trị thành công.
Mang phổ biến tác dụng phụ lúc điều trị bằng interferon. Thực vậy ngay cả lúc giải phóng interferon nội sinh cũng gây triệu chứng giống như cúm. Không mang gì phải sửng sốt vì điều chậm tiến độ, việc tiêm interferon thường gây ra những triệu chứng giống như cúm từ trung bình đến nặng, bao gồm: mỏi mệt, đau cơ, sốt, ớn lạnh, và chán ăn. Các triệu chứng giống cúm này là tác dụng phụ thường gặp nhất khi điều trị bằng interferon chiếm 80% trường hợp bệnh nhân. Tác dụng phụ khác bao gồm lo âu ( 20%), suy hay cường giáp (6%), giảm chức năng xương ống ( 40%, giảm hồng huyết cầu, bạch cầu, tiểu cầu ) và rụng tóc (25%). Khoảng 1/5 bệnh nhân điều trị interferon cần phải ngưng điều trị hay giảm liều do các tác dụng phụ này.
Điều không may mắn là tất cả bệnh nhân viêm gan B mạn không liên quan sở hữu trị liệu bằng interferon. Tuy nhiên, dữ liệu của 1 trị liệu hoàn hảo trong khoảng những điểm lợi của việc sử dụng interferon đã được biết. Như một bệnh nhân mang mức HBv cao trong máu, men gan tăng ( AST )

0 nhận xét:

Đăng nhận xét